Đặt tên theo 12 con giáp nào!
Tý (Thử, chuột): Giờ Tý (23h đêm đến lh), theo truyền thuyết khi trời đất vào giờ Tý, tất cả đểu bưng bít, không khí không thể xuất hiện, không thể sử dụng được các loại Vật chẩt, đúng lúc đó chuột mới cắn một cái, thiên thể mồ ra, giở Tý liển thuộc chuột (Thử).Người sinh vào thời gian này có thể dựa vào đó để đặt tên.
Sửu (Ngưu, trâu): Là giờ Sửu (lh-3h), theo truyền thuyết sau khi chuột cắn nứt trời đất, trâu mới ra cày ruộng, Vi đụ Lê Kìm Ngưu,...
Dần (Hổ, hổ): Là giờ Dần (3h - 5h sáng), từ hổ có ý là cung kính, người sinh vào giờ này đặt tên là hổ, như hoàng phi hổ, lý tiểu hổ.
Mão (Mão, mèo): Là giờ Mão (5h-'7h), những người sinh vào giờ này có thể đặt tên 1à Mão, như Lê Thị Mão,...
Thìn (Long, rồng): Là giờ Thìn (7h-9h), theo truyền thuyết đây là lúc đàn rồng bay vể hướng Tây. Nhũng người đặt tên như Vậy: Ngô Kim Long, Nguyễn Thăng Long, Cao Hoàng Long,...
Ty (Xà, rắn): Là giờ Ty (9h-llh), nghe nói rắn không đi trên đường đi của người, do vậy không thể cắn người.
Ngọ (Mã, ngựa): Là giờ Ngọ (llh-lSh trưa), lúc này dương khí iên đến cực điểm, âm khí chuẩn bị sinh ra, iúc này ngựa không rời khổi đất nên giờ Ngọ thuộc ngựa.
Mùi (Dương, dê): Là giờ Mùi (13h-15h chiểu), nghe nói dê có thể ăn cồ vào giờ Mùi mà không ẳnh hưỡng đến sinh trưởng, tái sinh của Cồ. Những cái tên vào giờ, này là Lê Vị Dương, Mã Ngọc Sơ.
Thân (Hấu, khi): Là giờ Thân (lõh-l'ĩh), từ "Thân' có nghĩa 1à giời leo trèo, VÍ đu Đặng Văn Thân.
Dậu (Kê, gà): Là giờ Dậu (17h-19h), lúc này gà chuẩn bị về chuồng, ví dụ Đổng Minh, Công Tôn Mai,...
Tuất (Khuyển, chó): Là giờ Tuất (19h-21h tối).
Hợi (Trư, lợn): Là giờ Hợi (21h-23h), đêm đã gần khuya, trời đất tĩnh 1ặng như Iợn nằm ngủ. đặt tên như vậy có Tôn Tiên Trí, Trương Hải Nguyệt,...
Cách đặt tên này dù sử dụng 12 con giáp nhưng vẫn không tránh khỏi hiện tượng trùng tên. Mặt khác một số tên quá đơn điệu, chẳng có ý nghĩa gi. Do vậy chúng tôi chỉ nêu phong tục này để các bạn tham khao. Còn cách nói cát hung lành dũ như "Phá nguyệt" (cuộc đời không thể tròn trịa), "Trùng hôn" (có mệnh khắc vợ, khi vợ mất sẽ tái hôn), "Đào hoa" (nữ vận), "Quả túc" (Cô đơn),... Chỉ 1à do mê tín, ngoại trừ chỉ là một tập tục và ý nghĩa về mặt tâm tư tâm lý ra, còn chẵng có một ý nghĩa thực tế nào.
Đăng nhận xét